Trái phiếu không lãi suất
Thông thường, hễ nhắc đến trái
phiếu người ta liên tưởng ngay đến món tiền lãi sẽ nhận được định kỳ. Thuật ngữ
trong tiếng Anh gọi các món tiền lãi đó là "coupon". Theo thông lệ
được nhiều nước áp dụng thì các trái phiếu coupon (coupon bond) nhận lãi mỗi
sáu tháng một lần. Tuy nhiên, trong thị trường tài chánh và chứng khoán còn có
các loại trái phiếu không nhận lãi. Các sản phẩm đặc biệt này, gọi là zéro-
coupon bond, dù có những đặc điểm riêng nhưng không xa lạ, lại hữu ích trong
một bối cảnh cần đa dạng mà bất cứ thị trường nào cũng có thể tham khảo áp
dụng. Chung cư 28 tầng làng quốc tế Thăng Long
Trái phiếu không nhận lãi là loại
không trả lãi định kỳ cho người sở hữu. Bù lại, chúng được phát hành ở một mức
có giá trị đầu tư khởi điểm thấp hơn mệnh giá. Người đầu tư mua và sở hữu trái
phiếu xem như đã được hưởng một tỉ lệ chiết khấu, giá trị đầu tư đó theo thời
gian tăng dần, tiệm cận và đạt tới mệnh giá trái phiếu vào ngày đáo hạn. Chung cư xa la
Nói theo ngôn ngữ tài chánh thì
giá phát hành trái phiếu là một khoản đầu tư hiện tại (present value), mệnh giá
trái phiếu là giá trị tương lai (future value), khoản bồi đắp dần được tính
theo cách xác định lãi kép và quá trình đó thuật ngữ gọi là accretion, ta tạm
gọi đó là khoản bồi vốn, có thể được tính hằng năm nếu có yêu cầu, nhưng thường
là chỉ để phục vụ cho mục đích tính thuế.
Như vậy, thu nhập mà người sở hữu
trái phiếu loại này có được chủ yếu là sự gia tăng từ khoản bồi vốn. Tuy nhiên,
điều đó lại không có nghĩa là giá của chúng sẽ ổn định. Ngược lại, thực tế tại
các thị trường chứng khoán có mua bán sản phẩm này, thì trái phiếu không nhận
lãi có giá cả biến động nhiều. Ở Mỹ, đây là loại trái phiếu có thể được hoãn
thuế, tạo cho nhà đầu tư có thêm một công cụ chọn lựa. Do đó, trong nhiều
trường hợp, chúng có thể hữu ích cho những cân nhắc về quản trị tài chánh hơn
là một sản phẩm dành cho các mục đích đầu tư bình thường. Cho thuê chung cư Indochina Plaza
Trái phiếu không nhận lãi thường
được bán với một chiết khấu (dưới mệnh giá) khá sâu. Thu nhập đối với người mua
loại zéro- coupon bond này dù rất dễ thấy ở khoản chênh lệch giữa giá phát hành
(đã chiết khấu) và giá ghi trên mặt trái phiếu (mệnh giá face value) lúc đáo
hạn, nhưng thực tế đó chưa cho người đầu tư một khái niệm khi cần so sánh. Do
đó, nó thường được tính ra một lãi suất tương đương để ta dễ hình dung hơn và
chọn lựa. Cách tính toán như vậy có thể thực hiện tương tự như cách tính mà các
ngân hàng áp dụng trong chiết khấu (bank- discount basis), bằng cách lấy chênh
lệch chiết khấu chia cho giá trị sau khi chiết khấu, rồi quy ra lãi suất năm.
Để minh hoạ đơn giản, ta có thể lấy ví dụ một trái phiếu không nhận lãi có mệnh
giá 1.000.000đ, đáo hạn 5 năm và được bán với giá 500.000đ (khoản chiết khấu là
500.000đ) thì lãi suất tương đương đó là: Bán chung cư Ct3 trung văn
1.000.000đ - 500.000đ /
1.000.000đ = 5% (5 năm)
Nhưng nếu tính theo hiệu quả đầu
tư, thực tế người đầu tư chỉ bỏ ra có 500.000đ, cho nên khoản chênh lệch thu
nhập dựa trên giá trị chiết khấu (500.000đ) sẽ được so sánh với vốn đầu tư
(trường hợp này cũng là 500.000đ) ta có lãi suất trái phiếu tương đương
(coupon- equivalent rate) là:
1.000.000đ - 500.000đ / 500.000đ
= 100% (5 năm)
Để có một nhận dạng đầy đủ hơn,
cần biết rằng trong thị trường tài chính và chứng khoán còn có các sản phẩm
tương tự nhưng không được gọi là zéro- coupon bond, thường là loại dưới một
năm, mà người ta gọi bằng những tên khác nhau trong thị trường vốn ngắn hạn
(money market). Điển hình cho loại này là loại giấy nợ kho bạc Mỹ (T- bill).
Giới chuyên môn gọi đây là chứng khoán chiết khấu (discount securities) hay
chứng khoán không chịu lãi (non- interest bearing securities). Trong tương lai
chắc rằng tại thị trường Việt Nam
rồi cũng sẽ có những sản phẩm như vậy. Theo kỹ thuật chào bán trên thị trường
chứng khoán, những sản phẩm đó cũng được nêu giá bằng phần trăm (%) chiết khấu.
Đây là cách giúp người đầu tư đối chiếu tham khảo nhanh và cần thiết cho một
thị trường đồng bộ. Nhưng nếu không nắm vững ta lại dễ bị nhầm lẫn khi mới tiếp
cận những sản phẩm này, dẫn đến phán đoán sai lệnh hoặc có thể bối rối. Bán chung cư 165 Thái Hà
Lấy một ví dụ để minh hoạ. Một
giấy nợ kho bạc trị giá 1.000.000đ đáo hạn 91 ngày, bán theo suất chiết khấu và
có giá bán theo số tuyệt đối là 975.000đ. Nhưng theo cách yết giá trên TTCK ta
có thể nhận được thông tin đại loại như sau:
"…đáo hạn tháng 9, thu vào
9,99%, bán ra 9,89%"
Cần lưu ý giá thu vào (bid) và
bán ra (ask/offer) ở đây là cách gọi theo nhà buôn chứng khoán, vì giống như
thị trường vàng ở ta, khi diễn đạt "giá mua, giá bán" luôn phải xác
định mình đang đứng ở phía nào.
Ta có thể bị nhầm khi đọc và hiểu
cách yết giá như vậy. Tại sao giá bán ra lại để là 9,89%? Không ít trường hợp
do chưa quen, người đầu tư “mới ra sân" có thể nghĩ họ chỉ phải trả
"901.100đ" thôi chứ! Quả thật, nếu là loại 52 tuần (1 năm) thì điều
đó không sai. Nhưng ta nên lưu ý đây là loại 13 tuần (91 ngày), do đó cần có
một phép tính quy đổi để thị trường có các thông số yết giá chuẩn đồng bộ theo
năm. Bách phân giá yết bán (9,89%) có từ phép tính sau đây:
1.000.000đ - 975.000đ / 1000.000đ
x 360 / 91 = 9,89% (giả định quy ước năm tròn là 360 ngày)
Tuy nhiên thế vẫn chưa đủ, khi
xem xét hiệu quả đầu tư, ta cần tính lãi suất tương đương (với trái phiếu) dựa
trên số tiền thực thụ bỏ ra, theo phép tính:
1.000.000đ - 975.000đ / 975.000đ
x 360 / 91 =10,14%
Rõ ràng thu nhập từ đầu tư qua
một thoáng tính toán như vậy có thể cho ta một nhận định lạc quan hơn.
Việc phát hành các trái phiếu
không nhận lãi có thể là do nhu cầu của các công ty cổ phần, hoặc chúng cũng có
thể được tạo ra bằng một kỹ thuật kinh doanh tài chính của các công ty môi giới
và kinh doanh chứng khoán. Chúng được "chế biến" từ các loại chứng
khoán khác nhau, gồm cả các loại do nhà nước phát hành. Ở Mỹ các chính quyền
địa phương và kho bạc nhà nước cũng từng tham gia phát hành loại này. Điển hình
là loại STRIPS (công cụ giao dịch thứ cấp theo lãi và gốc tách biệt) mà ta đã
có dịp khảo sát trong chuyên đề "Chứng khoán Chính phủ".
Một ví dụ về kỹ thuật tạo ra
chứng khoán không nhận lãi. Vào những đầu năm 1980, nhiều định chế tài chính
tại Mỹ sở hữu một lượng lớn các trái phiếu kho bạc nhà nước trả lãi định kỳ.
Trong một bối cảnh kinh tế tài chính được dự đoán là có điều kiện khả dĩ tăng
vòng quay vốn, họ đưa lượng tài sản này vào các ngân hàng thương mại quản lý.
Các ngân hàng sau đó phát hành các chứng chỉ dựa theo các kỳ trả lãi cũng như
trên đợt thanh toán lượng tiền gốc của mỗi trái phiếu. Theo cách như vậy, một
tập hợp trái phiếu kho bạc bình thường được quy đổi sang nhiều loại trái phiếu
không nhận lãi, mỗi loại có kỳ hạn hoàn trái khác nhau. Chẳng hạn, một công ty
đầu tư có thể mua giữ một lượng lớn trái phiếu kho bạc (T-bond) 15 năm, và ngay
sau đó họ ký thác lượng trái phiếu kia vào một ngân hàng thương mại. Ngân hàng
thương mại với nghiệp vụ của mình sẽ thu xếp phát hành một loạt các zéro-
coupon bond có thời kỳ đáo hạn thay đổi từ sáu tháng (ngày trả lãi đầu tiên)
đến 15 năm (ngày trả lãi cuối cùng và thanh toán tiền gốc). Như thế, các trái
phiếu 15 năm có thể được quy đổi thành 30 loại trái phiếu không nhận lãi!
Ưu điểm của việc đầu tư vào trái
phiếu không nhận lãi là tránh được rủi ro về tái đầu tư, hay còn được gọi là
rủi ro về lãi suất. Tuy đây chỉ là một ưu điểm tương đối trong phạm vi hẹp,
nhưng ít ra nó giúp cho một số người đầu tư có cảm giác chắc chắn và an tâm. Lý
giải đơn giản của lợi điểm này là tối thiểu tỉ lệ thu được ở tiền lãi do tái
đầu tư sẽ bằng zéro, bởi vì trong thực tế làm gì có khoản tiền nào được trả lãi
định kỳ để mà tái đầu tư (?). Điều này khác với trái phiếu thường, cứ sáu tháng
nhận lãi thì phải tính đến hiệu quả tái đầu tư khoản tiền lãi đó để sinh lợi
liên tục. Do đó mà có sự so sánh giữa lãi mẹ và lãi con.
Một thuận lợi khác, chứng khoán
không nhận lãi xem ra rất hữu ích trong hoạch định tài chánh. Công cụ này cho
phép ta có thể tính toán và lập kế hoạch tài chánh khá chắc chắn đo ta có được
mức tăng giá trị cụ thể ngay từ đầu đối với một món tiền đầu tư. Chúng có vai
trò đắc lực giúp bảo toàn và phát triển các nguồn tiền dài hơi, đặc biệt là các
quỹ hưu trí, các tài khoản giám hộ…
Những điểm lợi mà ta vừa nêu rất
thuyết phục khi người đầu tư mua và giữ các trái phiếu phi lãi suất đó lâu dài
và chờ hoàn trái khi đáo hạn. Trường hợp phải thanh lý ngắn hơn vì bất cứ lý do
gì, người sở hữu chúng đều có thể bị đứng trước bất lợi. Kinh nghiệm của thị
trường chứng khoán thế giới đã tổng kết và gọi đó là rủi ro về giá cả (market
risk). Bởi vì các trái phiếu không nhận lãi, nhất là loại dài hạn, có giá cả
biến động theo một biên độ lớn, điều này làm cho người bán khó lòng thực hiện
được sự tái tạo giá trị trở lại thành tiền tương đương với giá trị tích luỹ của
trái phiếu tại thời điểm bán. Bản thân công cụ thiếu tính thanh khoản cũng là
sự giải thích tại sao người đầu tư khi cần bán sớm và gấp không thể mong nhận
được sự chào đón thoả đáng.
Với các phân tích trên đây hy
vọng sẽ cung cấp thêm một nguồn tham khảo nữa để người đầu tư nắm vững và, nếu
cần, thận trọng hơn khi tiếp cận với các loại chứng khoán đặc biệt. (ST)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét